Charles Macintosh chế tạo một phiên bản áo mưa rất sớm từ chất liệu nào? Đúng nhất
Charles Macintosh đã chế tạo ra một phiên bản áo mưa rất sớm từ chất liệu nào, chất liệu chế tạo áo mưa sớm nhất từ Charles Macintosh, #allfreevncom chia sẻ.
Charles Macintosh đã chế tạo ra một phiên bản áo mưa rất sớm từ chất liệu nào?
Charles Macintosh là nhà hóa học người Scotland nổi tiếng với việc phát minh ra loại vải không thấm nước, #allfreevncomchiase, #allfreevncombaivietgoc, #allfreevncomchongcopy. Áo mưa mackintosh được đặt theo tên ông khi ông phát minh ra loại vật liệu mà ngày nay được sử dụng rộng rãi trong những thứ như áo mưa và túi chống nước.
Than đá naptha hay benzen là một chất lỏng không màu, độc hại có nguồn gốc từ dầu mỏ có thể được sử dụng để tạo ra một số sản phẩm hóa học khác nhau. Macintosh đã sơn một mặt của vải len bằng dung dịch cao su này và phủ một lớp vải len khác lên trên, do đó đã tạo ra loại vải không thấm nước đầu tiên trên thế giới.
Một cách mới để nhuộm vải!
Sau khi tròn 20 tuổi, Macintosh rời bỏ công việc thư ký và tập trung duy nhất vào lĩnh vực hóa học. Là một nhà hóa học tự học, nhà máy của ông đã sản xuất amoni clorua, thuốc nhuộm xanh Phổ và một số sản phẩm hóa học khác. Một ngày nọ, khi Macintosh đang làm việc xung quanh việc sản xuất các vật liệu như chì và nhôm axetat được sản xuất cho Anh, cuối cùng ông đã phát triển một phương pháp mới để nhuộm vải.
Khám phá vải không thấm nước
Vào năm 1823, khi đang thử nghiệm nhiều loại vật liệu khác nhau trong phòng thí nghiệm của mình, Macintosh tình cờ phát hiện ra một sự kết hợp thú vị. Trong khi thử nghiệm với các sản phẩm khí thải của than đá, Macintosh đã phát hiện ra rằng naptha nhựa than đá có thể hòa tan cao su Ấn Độ. Than đá naptha hay benzen là một chất lỏng không màu, độc hại có nguồn gốc từ dầu mỏ có thể được sử dụng để tạo ra một số sản phẩm hóa học khác nhau. Macintosh đã sơn một mặt của vải len bằng dung dịch cao su này và phủ một lớp vải len khác lên trên, do đó đã tạo ra loại vải không thấm nước đầu tiên trên thế giới.
Tại sao áo mưa lại có mùi như vậy?
Ý tưởng của Macintosh đã không thành công ngay lập tức vì vật liệu khi được sử dụng trong sản xuất vải trở nên cứng vào mùa đông và rất dính vào mùa hè. Nó cũng có một mùi nhất định khiến người mua khó chịu, thứ mà ngày nay chúng ta vẫn tìm thấy trong một số áo mưa.
Bàn tay giúp đỡ từ Thomas Hancock
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, tính toàn vẹn chống nước cũng bị ảnh hưởng do nước có thể thấm qua các đường khâu. Chỉ khi nhà khoa học đồng nghiệp Thomas Hancock cải thiện hiệu quả của vật liệu bằng cách thêm nhiều cao su hơn vào thiết kế ban đầu thì nó mới trở thành thứ mà ngày nay chúng ta gọi là vải chống nước.
Vì những đóng góp to lớn của ông trong các quy trình sản xuất khác nhau và phát minh ra vật liệu chống thấm nước, Macintosh đã được giới thiệu vào Hiệp hội Hoàng gia vào năm 1823, #allfreevncomchiase, #allfreevncombaivietgoc, #allfreevncomchongcopy.
Macintosh qua đời ở Dunchattan, Scotland vào ngày 25 tháng 7 năm 1843. Ông được chôn cất trong nghĩa địa của Nhà thờ lớn Glasgow.
Thomas Hancock là ai?
Thomas Hancock thành lập ngành công nghiệp cao su ở Vương quốc Anh. Ông sinh ra tại Marlborough ở Wiltshire, Anh, là con thứ ba trong số mười hai người con của một thương gia buôn gỗ và thợ đóng tủ. Khoảng năm 1815, Hancock bắt đầu kinh doanh xe ngựa với một trong những người anh em của mình ở London, Anh. Nhu cầu về một chất chống thấm hiệu quả – dành cho huấn luyện viên, tài xế và hành khách – đã khiến Hancock chú ý đến cao su. Vào tháng 4 năm 1820, ông đã được cấp bằng sáng chế lò xo cao su Ấn Độ cho nhiều loại quần áo như găng tay và dây treo. Sau đó, anh em nhà Hancock bắt đầu “công trình đàn hồi” để sản xuất các vật dụng sử dụng lò xo cao su.
Tìm kiếm một cách hiệu quả hơn để xử lý nguyên liệu thô của mình và sử dụng tàn dư cao su, Hancock vào năm 1820 đã phát minh ra thiết bị quan trọng nhất của mình: máy nghiền cao su. Anh ấy đã thiết kế một chiếc máy có răng xoay để xé vụn cao su, #allfreevncomchiase, #allfreevncombaivietgoc, #allfreevncomchongcopy. Trước sự ngạc nhiên của Hancock, các mảnh vụn được kết dính thành một khối cao su rắn mà sau đó có thể được ép trong khuôn thành các khối rắn chắc hoặc cuộn thành tấm. Máy nghiền của Hancock, được hoàn thiện vào năm 1821, đã làm cho việc sản xuất cao su trở nên thiết thực về mặt thương mại và khai sinh ra ngành công nghiệp cao su. (Hancock gọi chiếc máy của mình là “dưa chua” và giữ bí mật quá trình nghiền trong 10 năm.)
Những ưu điểm của máy nghiền cao su Hancock đã thu hút sự quan tâm của Charles Macintosh (1766-1843), người vào năm 1823 đã được cấp bằng sáng chế cho một quy trình chống thấm vải bằng cao su được xử lý bằng naphtha. Đến lượt Hancock xin giấy phép vào năm 1825 để sử dụng quy trình naphtha của Macintosh. Hai người đàn ông cuối cùng đã trở thành đối tác trong việc sản xuất các mặt hàng chống thấm nước.
Mặc dù ngành công nghiệp cao su đang phát triển, nhưng cao su vẫn có khuyết điểm là trở nên giòn hoặc dẻo khi nhiệt độ thay đổi. Khoảng năm 1840, Hancock đã phát triển một máy cắt lát, đóng một vai trò quan trọng trong việc sản xuất các tấm giấy bóng kính của John Wesley Hyatt (1837-1920). Khoảng năm 1842, Hancock đã mua một mẫu cao su đã được lưu hóa bằng quy trình Goodyear. Henghiên cứu mẫu và phát hiện ra tác dụng của lưu huỳnh dưới nhiệt. Vào tháng 11 năm 1843, Hancock đã lấy bằng sáng chế của Anh cho biến thể lưu hóa của mình – bằng sáng chế đã ngăn cản những nỗ lực của Charles Goodyear (1800-1860) để giành được bằng sáng chế của Anh cho phát minh lưu hóa của ông.
Hancock đã được cấp tổng cộng 16 bằng sáng chế liên quan đến cao su từ năm 1820 đến 1847. Năm 1822, ông phát triển ống cao su có thể cắt thành dây cao su và ống dây đai cứu sinh. Ông đã nghĩ ra nhiều cách sử dụng cao su trong y tế và thúc đẩy việc sử dụng cao su thay vì vòi chữa cháy bằng da. Ông đã thực hiện nhiều cải tiến trong sản xuất cao su và nghĩ ra nhiều cách để sử dụng sản phẩm mới đáng chú ý này. Hancock qua đời năm 1865 tại Stoke Newington, London.